Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2009

24.Võ bùa "tái xuất giang hồ" ?

Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay "thần quyền". Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch...

Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật.

Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang "tái xuất giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này.

Cao nhân ẩn tích

Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không?

Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh "chánh phái" nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt".

Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa (Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào.

Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thủa trước, Chín "cụt" có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng một hội khỏe năm 1986.

Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay - ông Chín.

Phận duyên tiền định

Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn thần quyền với ông như có duyên trời định.

Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp.

Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua.

Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy.

Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi.

Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hi vọng của mình.

Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần (năm 1981), lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về.

Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. "Đau" hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp.

Uất ức, trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn 15 cây số, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy.

Võ phái kỳ lạ

"Ngày tốt" ấy là ngày 9/10/1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình.

Theo lời thầy Lộc thì "thủ phủ" của Thất Sơn thần quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học thần quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành. (Có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn).

Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này.

Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (Càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.

Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hoà vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước.

Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần.

Thần chú vào... võ công ra

Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền.

Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó.

Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu.

Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn 15 phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã... hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thày không chỉ bảo được.

Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân.

Chín kể, khi đã "nhập đồng", cứ thấy nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết.

Tỉ thí tranh tài

Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra "trình độ".

Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy "cao tay" hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, ở bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng 25 cây số. Thần quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy.

Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những “cây đấu” của Thất Sơn. Những ai muốn "khẳng định thương hiệu" của riêng mình thì đều phải đánh với hai "cây đấu" ấy.

Ngay phút khởi động, một “cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động.

Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín.

Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường Phú Cát) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình.

Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần quyền được 10 năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên...

Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp.

Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh.

Dựng nghiệp bất thành

Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn thần quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái.

Để khẳng định sức mạnh của Thần quyền, Hội khoẻ Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn 6 tuổi.

Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục thần quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người.

Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường mách lối" của cố võ sư Đỗ Hoá, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái "phát dương quang đại". Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn thần quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực.

Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi.

Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục thần quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia.

Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã thôi không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai...

Lời thề của phái Thất Sơn

Một lòng hiếu thảo với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy; Không phản bạn; Coi bạn như anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc; Không nản chí khi luyện tập; Không thoái lui lúc nguy hiểm; Luôn bảo vệ kẻ yếu; Nhịn kẻ mất lòng ta; Thi hành nghiêm chỉnh những lời thầy dạy; Ôn hoà trong tình bạn; Không tự cao tự đắc; Cứu người trong lúc nguy nan...

23. Túy quyền và những truyền nhân tại Việt Nam

Trận ác đấu diễn ra vô cùng gay cấn. Chàng trai đại diện cho chính nghĩa bị đối phương tấn công bằng những chiêu thức công phu hủy diệt, sinh mạng như đèn dầu leo lét. Thế nhưng, trong cơn nguy khốn ấy, đại hiệp may mắn được viện trợ khẩn cấp bằng một..."món quà" đặc biệt, ấy là rượu.


Nốc ừng ực cả vò rượu lớn, chàng trai rơi vào trạng thái say mèm, chân lảo đảo, mắt lờ đờ. Đối thủ thấy vậy bèn nhào tới tung đòn quyết định.

Thế nhưng, lạ thay, quyền cước của hắn chỉ tung vào không khí. Tránh né tài tình, đại hiệp vừa kịp tung ra những chiêu thức hạ gục đối thủ... Đòn thế mà đại hiệp kia sử dụng là gì mà quỷ khốc thần sầu, chuyển nguy thành an như vậy?

Đi tìm "cha đẻ" võ say

Đó là Tuý quyền, cũng là bài võ thường thấy trên phim ảnh của Trung Quốc (khán giả Việt Nam từng biết đến bài quyền này qua bộ phim Hoàng Phi Hồng do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai). Và, cũng chính bởi sự hấp dẫn bài võ này... trên phim mà bấy lâu Túy quyền đã trở thành "đặc sản" của võ học Đại lục, với các lời đồn đoán nửa hư, nửa thực.

Trong quá trình đi tìm chân tuớng bài quyền trứ danh này, điều vô cùng kinh ngạc là ngay tại Việt Nam cũng có Tuý quyền, hiện nó nằm trong tay một vài cao thủ của làng võ Việt Nam.

Tìm hiểu về bài võ độc đáo này, người đầu tiên tôi nghĩ đến là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, bởi có lần tôi thấy ông biểu diễn quyền thuật rất dẻo, có những nét giống những chiêu thức trác tuyệt của Tuý quyền. Thế nhưng, cao thủ Hoa quyền này bảo, môn phái của ông tuy nổi danh với rất nhiều những bài võ có chọn lọc, chỉnh biên từ võ Tàu, nhưng túy quyền thì không.

Rất may là võ sư Tín cũng khẳng định, ở Việt Nam có Túy quyền, nhưng rất ít môn phái sở hữu nó, những cao thủ thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Võ sư giới thiệu cho tôi hai môn phái mà bấy lâu, Túy quyền của họ đã được làng võ Việt Nam thừa nhận.

Theo sự giới thiệu ấy, tôi tìm đến võ sư Băng Sơn, hiệu là Bắc Phong chân nhân, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia. Như nhiều người đã biết, võ sư Băng Sơn ngay từ nhỏ đã theo sư phụ Lý Chấn Hòa, người Trung Quốc, sống tại Việt Nam, Chưởng môn đời thứ 44 của môn phái Thiếu lâm Phật gia luyện võ.

Sau khi Lý sư phụ về nước, ông lại vào Nam bái Thiện Tâm thiền sư Đoàn Tâm Ảnh, môn phái Côn Luân làm thầy. Kế đến, ra Bắc, ông tiếp tục tôi rèn võ công cùng lão võ sư Trần Công, hiệu là Huyền Công Đạo, môn phái Không Động.

Mấy chục năm lăn lộn trên giang hồ, được tiếp cận với nhiều bí kíp, tinh hoa võ học nhưng võ sư Băng Sơn bảo, thứ mà ông thích thú nhất, đó là được học Túy quyền với Lý sư phụ từ khi còn nhỏ. Sau này, cùng với sự tìm tòi nghiên cứu, võ sư Băng Sơn đã nâng tầm Túy quyền của mình lên một cảnh giới cao hơn.

Thế "Bá vương kính tửu"

Thế "Bạch hạc phi thân"

Thế "Thái Bạch túy tửu"

Thế "Ngưỡng thân ẩm tửu"

Võ sư Băng Sơn thi triển Túy quyền

Võ sư Băng Sơn cho biết, hiện tại ngay cả Trung Quốc vẫn chưa biết ai là người sáng tạo ra Túy quyền. Theo truyền thuyết thì bài võ này bắt nguồn từ trận hỗn chiến của 8 vị tiên trong thần thoại Trung Hoa, bởi thế nó còn có tên là Túy Bát tiên.

Tương truyền, sau khi tu luyện đạt đến trình độ thượng thừa, bát tiên (gồm Chung Ly Quyền, Lam Thái Hòa, Tào Quốc Cữu, Lữ Động Tân, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quải) được Ngọc Hoàng Thượng đế giao cho nhiệm vụ diệt quái trừ yêu, bảo vệ lương dân. Một lần, vượt biển trừ yêu, bởi sóng to nên thuyền của bát tiên bị đánh đắm khiến cả tám vị chìm nghỉm ở giữa biển khơi.

Kính trọng bát tiên, long cung mở tiệc ăn mừng nhân chuyến hội ngộ kỳ duyên đó. Rượu say bí tỉ, với bản tính thích giỡn đùa, quậy phá, bát tiên đã đánh lộn với binh tôm tướng cá, gây náo loạn long cung. Kịch chiến trong lúc say, nhưng với võ công siêu đẳng, bát tiên vẫn thi triển những chiêu thực võ thuật vô cùng đẹp mắt. Sau cùng không muốn màn "siêu quậy" của bát tiên thêm nữa, Long Vương đành phải để bát tiên đi.

Thế nhưng, bởi đó là trận chiến long trời nở đất, nên hình ảnh tám vị tiên say đánh lộn đã in bóng lên trời. Thấy hình ảnh 8 vị tiên đi quyền đẹp mắt, người hạ giới cứ ngó mà học theo. Túy quyền xuất hiện từ dạo đó.

Theo võ sư Băng Sơn, đến bây giờ, tranh, tượng mô phỏng hình ảnh "Bát tiên quá hải" vẫn còn được treo, thờ trong nhiều gia đình Trung Quốc. Trong những bức tranh hay tượng ấy, mỗi vị tiên thể hiện một thế đứng đặc biệt của mình, tượng trưng cho một thế võ của Túy quyền.

Ngoài Bát tiên, trong đời sống văn học, nghệ thuật của Trung Hoa cũng xuất hiên nhiều nhân vật mà cuộc đời đã thành một biểu tượng cho tinh thần trượng nghĩa, lấy chính trực, quân tử để chiến thắng bạo tàn, dối trá. Theo võ sư chưởng môn Võ lâm Phật gia thì họ đều có bí kíp... võ say và cách thức thi triển công phu độc đáo của họ đã thành tên của một số bài Tuý quyền sau này.

Người đam mê văn học, võ thuật không thể không biết tới những trận say nghiêng ngả của hành giả Võ Tòng, một nhân vật giàu cá tính trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am. Những trận say quên trời đất của vị hành giả ấy đã là nguồn cảm hứng để võ lâm sáng tạo một loạt những chiêu thức tuý quyền có tên là Võ Tòng tuý tửu. Trong số ấy tiêu biểu có trận đả hổ tại đồi Cảnh Dương, say đả Tưởng Môn Thần, đại náo Phi Vân phố...

Cũng trong tiểu thuyết lừng danh ấy, một "ông tổ" của tuý quyền đã được Thi Nại Am, sau này là phim ảnh Trung Quốc mô tả vô cùng rõ nét, đó là nhà sư tính tính lỗ mãng nhưng rất đáng yêu Lỗ Trí Thâm. Thật hiếm khi thấy nhân vật này xuất hiện mà không có nậm rượu bên mình. Bởi luôn sống trong tình trạng... say xỉn nên hoà thượng này đã để lại nhiều trận đánh kinh hồn bạt vía. Trong số những trận đánh bởi ma men điều khiển ấy hẳn nhiều người không thể nào quên trận "tuý đả sơn môn", say giao đấu với cả trăm vị hoà thượng tại chùa trên Ngũ Đài Sơn.

Khi nhắc đến môn võ độc đáo này, theo võ sư Băng Sơn thì không thể không nhắc tới một "ông tổ" nữa đó là... Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Với trận say nghiêng ngả này, lão Tôn đã một mình đại náo thiên đình bằng những động tác võ thuật vô cùng uy lực. Bởi trận chiến làm thiên binh thiên tướng thất điên bát đảo này, chúa tể của Hoa Quả sơn đã là nguồn cảm hứng để làng võ sáng tác ra những chiêu thức ảo diệu trong Tuý hầu quyền.

Tuyệt kỹ của đệ tử... Lưu Linh?

Trên phim ảnh, thường thì những người thi triển tuý quyền đều ở trạng thái say bí tỉ, không phân biệt thế nào là thật giả, đúng sai. Mắt thì lờ đờ, điệu bộ thì liêu xiêu, ngật ngưỡng. Rượu càng nhiều thì võ càng thăng hoa, uy lực.

Phải chăng, muốn sử dụng được Tuý quyền thì người luyện võ phải luyện thêm cho mình khả năng... uống rượu?

Trao đổi điều này với võ sư Băng Sơn, ông khẳng định: Không có chuyện rượu vào... võ ra như trên phim. Cốt lõi của tuý quyền là hình say chứ ý không say, bước say chứ tâm hoàn toàn tỉnh táo. Cụ thể hơn, Tuý quyền là bài võ có quyền pháp bắt chước hình ảnh của người say chứ không phải thực say. Hình ảnh người say trên phim ảnh đó chỉ có tính chất nghệ thuật, hư cấu, những nhà làm phim muốn khắc họa một cách ẩn ý triết lý cốt lõi của bài võ độc đáo này.

Triết lý đó là dù thân thể có say đến mấy thì tâm người luyện võ vẫn phải tỉnh táo. Còn thực tế, rượu đã say mèm, đứng còn không vững thì đừng nói chuyện... đánh đấm.

Tuý quyền tiềm ẩn sức mạnh trong các thế đứng và vồ. Khi chiến đấu, người võ sĩ phải vận dụng, phối hợp nhuần nhuyễn nhãn pháp (mắt), thủ pháp (đòn tay), cước pháp (đòn chân) và thân pháp (di chuyển, thân người võ sĩ luôn ở trạng thái khật khưỡng, hoặc uốn từ đông sang tây, vươn ngẩng về phía trước, hay ngửa gập ra phía sau).

Túy quyền kết hợp nhiều động tác tay nhưng ấn tượng và đặc trưng nhất vẫn là động tác nâng chén rượu mời. Còn thân pháp thì chú trọng đến thế ngã, lăn lộn, tung người. Trong tất các các thế này đều chứa đựng cả thế công và thủ. Cước pháp thì đặc trưng là những "cú đá người què" như đá móc, nằm đá...

Tuý quyền "madein Việt Nam"

Cũng nhờ sự giới thiệu của võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng Hoa quyền mà tôi đã được tận mắt chiêm ngưỡng nét hoa mĩ, hài hước ở những chiêu thức Túy quyền do chính tác giả của bài võ ấy, lão võ sư Trần Hưng Quang, Chưởng môn phái Bình Định Gia, biểu diễn.

Lão võ sư Trần Hưng Quang thi triển Túy quyền

Lão võ sư Trần Hưng Quang (từng đóng vai Ốc trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) tuổi đã ngoại bát tuần nhưng còn minh mẫn lắm. Quê gốc ở đất võ Bình Định, sớm được các danh sư nổi tiếng truyền thụ võ công nên khi ra Hà Nội, ông đã làm rạng danh võ phái Bình Định Gia của mình.

Hoà cùng các bài võ đã đi vào truyền thống của Bình Định, mới đây, lão võ sư còn "trình làng" những chiêu thức võ công mới, do ông tự sáng tác có tên chung là Tuý quyền, được làng võ vô cùng hâm mộ.

Lão võ sư cho biết, các chiêu thức trong Tuý quyền của môn phái ông không phỏng theo bất cứ môn phái nào, đó là kết quả của cả đời lăn lộn, nghiên cứu, nghiền ngẫm, đúc kết của riêng cá nhân ông. Bởi tuổi đã cao, chân tay đã yếu nên các động tác quăng quật, tung người, lăn lộn của lão võ sư không còn lanh lẹ nữa, nhưng khuôn mặt, điệu bộ say thì lão võ sư "diễn" đạt vô cùng.

Lão võ sư cho biết, tập Tuý quyền đã vô cùng khó, đạt tới đỉnh giới cao nhất của Tuý quyền lại càng khó hơn. Dù Tuý quyền đã chính thức là "tài sản" của môn phái nhưng cho đến giờ chỉ có 2 môn đồ của võ sư có thể biểu diễn được ở trình độ cao.

Trong hai môn đệ ấy, người từng biểu diễn Tuý quyền và dành huy chương vàng ở Hội diễn võ thuật cổ truyền Hà Nội, do sức khoẻ yếu đã từ giã con đường võ thuật. Thế nên, theo lão võ sư, Tuý quyền của Bình Định Gia vẫn chưa tìm thấy một truyền nhân thực thụ.

Tuý quyền của Bình Định Gia có 50 thế đánh, nhưng để bắt đầu luyện tập thì người luyện võ phải có cơ bản là 3 năm tôi rèn võ thuật trước đó. Bài đầu tiên của Tuý quyền là tập mắt, bởi ánh mắt là "mồi nhử", khiến đối phương tưởng địch thủ của mình... say thật. Cứ đứng trước gương mà luyện, luyện đến khi nào ánh mắt lờ đờ, nhìn như không nhìn, liếc như không liếc, xéo như không xéo mới đạt.

Tiếp đến là tập nét mặt. Sắc mặt người say có nhiều điểm khác so với người tỉnh táo. Lão võ sư bảo, chỉ nhìn sắc mặt là có thể đoán ngay kẻ đối diện mình say hay tỉnh, quắc cần câu hay chỉ mới lây phây. Kế đến là... âm thanh. (Chi tiết này có lẽ chỉ có Tuý quyền của Bình Định Gia mới có). Đó là những tiếng ợ, nấc, thậm chí cả tiếng... "cho chó ăn chè".

Bởi là bài võ dựa vào địa hình, địa vật để chiến đấu nên sau những bài tập về thần thái là những bài tập nhào lộn, quăng quật. Để thuần thục bài tập này, người luyện võ phải chấp nhận những vết bầm dập bởi những cú va chạm do... ngã. Bài tập này chỉ hoàn thành khi người luyện ngã chơi mà như ngã thật, nhào lộn, bật, bốc thân nhẹ nhàng tựa lá vàng bay.

Sau những bài tập nền tảng trên thì chiêu thức Tuý quyền mới được lão võ sư truyền dạy. Lão võ sư bảo, nếu có cơ bản võ thuật, học Tuý quyền thì chỉ mất vài tháng, thế nhưng, để thành cao thủ có lẽ phải là người có cơ duyên. Bằng chứng là nhiều môn đệ của lão võ sư dù hấp thụ rất nhanh những bài võ khác nhưng Tuý quyền tập mãi và vẫn chẳng thành.

Phái Võ lâm Phật gia của võ sư Băng Sơn cũng chung "cảnh ngộ" như võ phái của lão võ sư Trần Hưng Quang. Dù võ say (Tuý quyền vân du) đã là bảo vật của môn phái, đã được nhiều người luyện võ ngưỡng mộ, nhưng đến giờ, những người học được tuý quyền vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Tuý quyền lợi hại như... phim?

Theo võ sư Băng Sơn, làng võ Việt Nam, ngoài môn phái của ông và Bình Định Gia thì võ say còn xuất hiện ở các môn phái như Thiếu lâm Châu gia ở TP.HCM với những bài như Tuý hầu quyền, Tuý hầu côn. Võ phái Hồng Gia quyền ở Đà Nẵng với bài Bát tiên tuý tửu và dòng Phan gia võ học ở Quảng Nam với bài Tuý quyền, Tuý nhân kiếm...

Tuy thế, theo võ sư Băng Sơn, từ khi xuất hiện, võ say chưa thực sự được "thử lửa" bởi làng võ chưa từng chứng kiến cuộc thư hùng nào của những cao thủ. Sở dĩ như vậy là bởi võ say chỉ được sử dụng khi những cao thủ uyên thông bài võ này gặp những đối thủ dưới tầm, vừa đánh vừa... trêu. Còn khi đối đầu với những đối phương ngang tầm chẳng ai sử dụng võ say cả, bởi có nhiều lối đánh khác giải quyết trận chiến nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Và, theo võ sư Băng Sơn, nếu có phải vận dụng đến bài võ ảo diệu này thì người ta cũng chỉ vận dụng chiêu thức, đòn thế để tấn công đối thủ trong chớp nhoáng. Các động tác dật dờ, liêu xiêu, bước thấp bước cao của người say cũng sẽ bị lược bỏ cho... đỡ mất thời giờ.

Tuy thế, đã vài lần thử dùng võ say trong các cuộc đánh giao lưu với đồng đạo võ lâm, võ sư Băng Sơn thấy uy lực của võ say là vô cùng lợi hại, rất phù hợp cho những trận đánh ở tư thế gần.

Vui xuân, nhiều người quá chén. Thế nhưng, khi ấy đừng ai có dại mà biểu diễn "võ say" bởi "võ" ấy chỉ nhận cho mình phần họa mà thôi !

Đào Thanh Tuy


trích: giadinh.net

22. Hạ võ sĩ Nam Hàn, vinh danh làng quyền cổ

Khi đối phương tung một cú đòn lỡ trớn, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Đám khách không mời đã phải chắp tay: "Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!".

Sáng tổ của làng quyền An Vinh (đất võ Bình Định) là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân.

Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ...

Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An, là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo.

Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.

Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.

Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chùy... ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba... ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch. Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ.

Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài, mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.

Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa.

Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.

Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành... nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển.

Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà. Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục.

Ở tuổi tuổi xưa nay hiếm, nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, lại một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ. Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại xắn áo “thượng đài”.

Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mảng vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ trớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!”.

(Còn nữa)

Đào Thanh Tuy


trích: giadinh.net

21. Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành

Biết đã vào thế hiểm, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.

Võ Việt Nam khởi nguồn từ võ trận, bởi suốt 4.000 nghìn năm đất nước bao phen phải gồng mình chống giặc ngoại xâm. Cho đến ngày nay, giữa bộn bề lo toan của cuộc mưu sinh, tinh thần thượng võ vẫn có đất để phát dương quảng đại.

Trên đây là đôi dòng phác họa về người được mệnh danh là "Đệ nhất roi Hồ Ngạch" mà GiadinhNet kể cùng độc giả (ở phía dưới)...

Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một (và đầu tiên) trong số vô vàn những "huyền thoại" mà GiadinhNet sẽ kể tiếp với độc giả, để cùng hiểu thêm về truyền thống võ học của dân tộc Việt Nam.

Và nữa, trên bầu trời võ thuật rộng lớn ấy, có những cao thủ như tinh tú rực rỡ và các cao nhân “ngọa Hổ tàng Long”. Nhưng ai mới xứng đáng là đệ nhất cao thủ?

So với những cao thủ bây giờ thì họ đã là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn.

Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo...

Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành

Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” hay “Trai An Thái, gái An Vinh”...

Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần. Trong làng roi Thuận Truyền, không ai không biết tên tuổi lẫy lừng của võ sư Hồ Ngạch.

Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng.

Ngay từ nhỏ, Hồ Ngạch đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường côn biến hoá, sâu hiểm khôn lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kỹ vô song.

Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả “đánh úp” hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành.

Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải gia nhập đảng cướp của y.

Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ.

Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để “ăn sống nuốt tươi” đối phương, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt. Và khi ấy, Hồ Ngạch mới ra đòn tuyệt kỹ...

Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.

Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin, không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy.

Hồ Ngạch đâu biết rằng, đó là một âm mưu của Dư Đành. Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ.

Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập. Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.

Rất nhiều võ sư Việt Nam hiện nay có thể biểu diễn được công phu này

Đệ nhất côn thư hùng đệ nhất quyền

Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.

Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu.

Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương. Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu.

Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên.

Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.

Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: “Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!”.

(Còn nữa)

Đào Thanh Tuy


trích :giadinh.net

20. Cao thủ Hoa quyền và tuyệt kỹ Hồng gia

Khi thực hiện loạt bài về những "thiên hạ đệ nhất" cao thủ, GĐ&XH cũng đã được bạn đọc giới thiệu danh tính hai võ sư mà "tiếng tăm của họ nổi cả trong làng võ và ngoài đời". Hai cao thủ ấy là Trưởng tràng Hoa quyền - võ sư Vũ Quang Tín; và Chủ nhiệm võ đường Hồng gia - võ sư Chu Há.

Người có khuôn mặt của một võ tướng

Vài năm trước, trên một tờ báo của ngành Công an có đăng câu chuyện về một võ sư dũng cảm, dùng võ thuật khống chế một tên côn đồ nguy hiểm khi hắn hung hãn dùng dao tấn công dân lành.

Bài báo viết: “Hôm ấy, khi ông đang ngồi trò chuyện với một người bạn ở trước của nhà, thì không biết từ đâu một tên du đãng bất ngờ xuất hiện. Không biết có mối thù hận từ trước hay do nhầm lẫn mà tên này đã thình lình túm ngay tóc người bạn, giật ngược ra phía sau rồi như thú hoang, dùng dao nhắm vào cổ nạn nhân chém tới. Trước diễn biến bất ngờ ấy, vị võ sư ngồi đối diện đã bật dậy và bằng một động tác võ thuật điêu luyện, ông đánh văng hung khí trên tay của tên sát nhân, đồng thời, nhanh chóng khống chế, bắt giữ kẻ manh động ấy”.

Người hùng năm đó chính là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, đệ tử chân truyền của lão võ sư nổi tiếng Hoàng Thanh Vân (Chưởng môn đời thứ 2 của Hoa quyền).

Vũ Quang Tín (sinh năm 1952) mắt sắc, mày rậm, tóc búi củ hành, bộ râu thì vô cùng ấn tượng: Rậm và được tỉa tót công phu như để tôn khuôn mặt thêm phần... dữ dằn, chẳng khác nào một võ tướng thời Trung cổ. Tuy thế, khi tiếp xúc lại thấy ông khác hẳn với “phong thái” bề ngoài: Gần gũi, thân thiện, thậm chí có phần e dè, khiêm tốn.

Thế nhưng, sự kín kẽ trong cách ăn nói ấy vẫn chẳng làm cuộc nói chuyện giữa tôi và ông trong căn gác nhỏ ở khu Thanh Nhàn - Hà Nội, vốn đông đúc dân cư, kém phần hấp dẫn. Võ thuật, dường như với ông, đó là lẽ sống duy nhất của mình. Ông bảo: May mắn lớn nhất của đời mình là được bái võ sư Hoàng Thanh Vân làm sư phụ.

Cuộc bái sư kỳ lạ

Ông kể, nghe tiếng tăm của lão võ sư, chưa một lần giáp mặt nên ông cứ nghĩ, lão võ sư là một người to lớn, khuôn mặt thì tinh anh, phong thái thì vô cùng ung dung, thanh thoát, khác xa với những kẻ... “phàm trần”. Thế nhưng, buổi đầu tiên diện kiến, thì thần tượng trong đầu ấy của ông đã... thay đổi hoàn toàn.

Lão võ sư Hoàng Thanh Vân là người nhỏ bé và trông bộ dạng thì rất... cù lần. Tuy thế, đã đến nơi thì ông vẫn ngỏ lời xin theo học. Đồng ý nhận ông làm đệ tử, nhưng trong năm đầu tiên, về võ thuật, sư phụ Hoàng Thanh Vân tuyệt nhiên không đả động gì đến ông.

Tới võ đường, lão võ sư chỉ dạy ông cách thức bốc thuốc chữa bệnh và thực hành ngay việc đó - chữa bệnh cho mọi người quanh vùng. Trong khi ấy, các sư huynh thì được lão võ sư tận tình chỉ bảo khiến ông rất đỗi tủi thân. Thi thoảng rảnh việc, thấy ông ngồi một mình tư lự, lão võ sư vời ông đến nhưng không phải để dạy võ công mà... đọc thơ cho ông nghe!

Buồn. Chán. Nản. Thấy biểu hiện ấy của ông, lão võ sư chỉ liếc mắt, rồi mủm mỉm cười. Mãi hơn 1 năm sau, một sớm, đến võ đường, đang chực bốc thuốc chữa bệnh thì ông bất ngờ được lão võ sư gọi lại và bảo: “Con theo ta cũng đã lâu, ta biết, con là người kiên định! Đức ấy, học võ thì quý vô cùng. Từ nay ta sẽ đích thân dạy võ cho con!”.

Nghe sư phụ mình nói vậy, ông mừng vui khôn xiết. Thế nhưng, nỗi niềm rạng rỡ ấy bỗng chốc hoá thành sự lo lắng khi sư phụ ông tiếp lời: “Ta để con vào lớp của các sư huynh của con. Con phải cố mà theo kịp họ. Nhược bằng không thì ta cũng chẳng biết phải giáo dưỡng con cách nào cho phải nữa?!”.

Nhắm mắt... vẫn nhìn thấy sự chuyển động của đối thủ

Bắt đầu từ hôm đó, ông đã có những tháng ngày theo đuổi nghiệp võ vô cùng khắc nghiệt. Các sư huynh ông đa phần là những người đã theo thầy rèn luyện được vài năm và ai cũng như hộ pháp. Bởi thế, sau mỗi buổi tập, về nhà là ông thấy toàn thân mình đầy vết bầm dập bởi bị... dính đòn.

Hoa quyền có phần cơ bản là công phu rèn luyện thập hình gồm thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần. Các môn sinh của môn phái chỉ được tiếp cận đến quyền thuật khi đã “chín” ở giai đoạn “đào tạo cơ bản”. Giai đoạn này, môn sinh phải khổ luyện mất những 3 năm, thậm chí lâu hơn. Khi đã thông thạo thập hình, môn sinh mới được truyền thụ 18 bài Hoa quyền cùng các loại binh khí như kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, thiết phiến, song phủ, song chuỳ...

Thời gian thấm thoắt trôi, với sự lanh lẹ vốn có, khả năng hấp thụ công phu của ông đã khiến Hoàng sư phụ vô cùng mãn nguyện. Võ sư Vũ Quang Tín bảo, người tập Hoa quyền được gọi là thành công chỉ khi phối hợp được đồng nhất Thân, Thủ, Bộ. Khi ấy, người luyện võ dường như rơi vào “trạng thái” tự do, có thể thích ứng linh hoạt từng tình huống chiến đấu cụ thể. Và, mỗi hình thức thích ứng ấy đều là những đòn thế vô cùng lợi hại, có thể hạ gục đối phương ngay lần “tiếp xúc” đầu tiên.

Theo Hoàng sư phụ được hơn 20 năm, khi công phu đã đạt tới trình độ xuất kỳ bất ý (đòn đánh ra như ý muốn, có thể nhắm mắt, nghe được chuyển động của đối phương). Năm 1993, hai thầy trò phải tạm chia tay. Hoàng sư phụ sang Nga dạy võ. Sống ở xứ lạnh lâu ngày thành quen, lão võ sư Hoàng Thanh Vân đã định cư luôn ở đó.


Võ sư Vũ Quang Tín

Một đòn... “chết bảy”

Có lẽ, trong số các võ sư mà tôi đã gặp, thì võ sư Vũ Quang Tín là người phải “cọ xát” quyền thuật nhiều nhất trong hành trình lập nghiệp của mình. Điều này đã được võ lâm đồng đạo xác nhận.

Lần ấy, ông đến thăm một anh bạn cũng luyện võ ở trên phố Trần Quốc Toản. Bởi cuộc viếng thăm không báo trước nên khi vào nhà, ông bất ngờ khi thấy nhà bạn mình lố nhố kẻ đứng, người ngồi. Thì ra, hôm đó, có một toán võ sĩ học công phu ở nước ngoài về, muốn vào so tài cao thấp cùng bạn ông.

Thấy một người đàn ông thấp bé xuất hiện, một gã trong đám bảo, ông nên ngồi vào góc giường, nếu không muốn vạ lây bởi sắp có đánh nhau to. Điệu bộ hống hách của đám võ sĩ ấy khiến ông khó chịu, nhưng nghĩ chẳng phải chuyện của mình, ông đành... ngoan ngoãn ngồi vào nơi mà họ đã “tận tình” chỉ bảo.

Tuy cuộc đấu chưa diễn ra nhưng quan sát, thấy sắc mặt của bạn mình... không được tốt, ông đoán biết, bạn mình đã có phần e ngại. Không tự tin thì khi thử tài chắc chắn chuốc lấy thất bại nên ông đã đứng dậy tham gia: “Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên trao đổi võ thuật thôi. Như vậy thì cũng đủ để rạch ròi cao thấp!”. “Không đánh hết lực thì làm sao phân biệt được! Phải đánh thẳng tay!”. Một gã trong toán “khách mời” quả quyết và cả bọn đã đồng thanh hưởng ứng theo như muốn “ăn tươi nuốt sống” chủ nhà.

Trước tình thế ấy, với sự nao núng hiển hiện trên mặt bạn, nghĩ bạn mình không phải là đối thủ của toán người lực lưỡng trên, ông đã quyết định đứng ra tỉ thí thay bạn. Trước quyết định của ông, toán người trên chỉ cười khẩy nhưng họ vẫn gật đầu chấp thuận. Có lẽ, họ đã nghĩ, tạng người như ông thì chẳng được mấy hiệp. Thế nhưng, phòng trường hợp “ngoạ hổ tàng long”, họ vẫn cử một người cao to nhất ra ứng đấu.

Chẳng cần nhiều, chỉ một lần vào đòn, kẻ kiêu ngạo đã bị người đàn ông thấp bé đánh bật ra góc sân, phải hồi lâu mới loay hoay gượng dậy. Sau cú đòn ấy, gã ta đã chắp tay xin thua rồi đứng dạt ra phía sau. Vẫn đứng nguyên vị trí đó, ông ra hiệu cho người khác vào sới.

Thế nhưng, chứng kiến đòn đánh của ông “dành cho” đồng đội mình, toán người ấy đứng như trời trồng, không ai nhúc nhích chân tay “xung trận” nữa. Chờ một hồi không thấy ai vào, ông mới chắp tay, từ tốn bảo: “Làng võ Việt Nam nhiều người tài giỏi hơn tôi gấp mấy trăm lần. Các cậu còn trẻ, học võ mà quên mất đạo thì thành tài sao được! Thôi, về học thêm đi. Khi nào thấy đủ, cứ tìm tôi mà thử!”.

Học võ của danh sư “bát quái thần côn”

Võ sư Chu Há không uống rượu, thế nhưng nhà ông lúc nào cũng đông đúc bạn bè, quây quần chén thù chén tạc, rồi say mê luận chuyện võ công.

Võ sư Chu Há sinh năm 1947, quê gốc ở huyện Đầm Hà, Quảng Ninh. Bởi mưu sinh, nên ngay từ khi còn bé, ông đã theo cha mẹ rời lên Hà Nội. Cha ông là người mê võ nên ngay từ tấm bé, ông đã được cha mình truyền thụ những kỹ năng cơ bản của võ thuật.

Năm 1963, khi 16 tuổi, ông đã được người quen giới thiệu đến danh sư Tô Tử Quang, Sáng tổ môn phái Hồng gia quyền ở Việt Nam bái sư, học võ. Thầy Tô Tử Quang khi ấy ở phố Nguyễn Công Trứ, không mở võ đường mà chỉ dạy võ cho những người thân thiết. Võ sư Chu Há là một người như thế.


Võ sư Chu Há thời trẻ

Theo võ sư Chu Há, cụ Sú Tàu (tên thân mật của Tô sư phụ) là người Trung Quốc. Ông sinh năm 1910, ở huyện Long Châu, Quảng Tây trong một gia đình 8 đời theo nghiệp võ. Ngay từ nhỏ, Tô sư phụ đã được cha mình là võ sư nổi tiếng Tô Cao Lân truyền dạy công phu Hồng gia quyền. Có giai thoại rằng, năm lên 7 tuổi, Tô sư phụ đã được Hoàng Phi Hồng, cũng một danh sư của Hồng gia chỉ bảo thêm về quyền thuật. Với năng khiếu bẩm sinh, năm 18 tuổi, trong một cuộc thi võ hàng năm ở Quảng Tây, ông đã giành giải nhì và được mệnh danh là “Thần đồng võ thuật”.

Sau khi thành danh ở Quảng Tây, như bao thanh niên khác, Tô Tử Quang tìm về Thượng Hải. Chốn nhiễu nhương ấy, bằng khả năng công phu của mình, ông đã được một đại thương gia trọng dụng khi một lần, dùng công phu giải cứu cô con gái rượu của vị thương gia ấy thoát khỏi tay bọn bắt cóc, tống tiền.

Thế nhưng, bởi mến mộ tài năng, khí phách của chàng trai trẻ, cô tiểu thư ấy đã đem lòng yêu mến. Mối tình không hộ đối, môn đăng ấy đương nhiên vướng phải sự cấm đoán cay nghiệt từ phía nhà cô gái. Vậy là, để mọi chuyện được yên bề, Tô sư phụ đành phải hi sinh tình yêu của mình. Ông lại tiếp tục lên đường phiêu bạt. Và Việt Nam là nơi dừng chân cuối cùng trong chặng đường giang hồ ấy.

Được biết, trong quãng thời gian ở Thượng Hải, Tô Tử Quang đã hai lần đoạt giải quán quân quyền thuật. Và, cũng chính ở đất này, ông đã được võ lâm giang hồ tôn sùng là “Bát quái thần côn” bởi khả năng siêu đẳng khi sử dụng binh khí này.

Công phu làm hài lòng cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Theo võ sư Chu Há, Tô sư phụ đến Hà Nội từ năm 1954. Ông làm việc tại Nhà máy in Tiến bộ. Mãi đến năm 1963, ông mới chính thức phổ biến Hồng gia quyền cho mọi người. Thế nhưng, việc truyền thụ ấy cũng chỉ ở phạm vi rất hẹp, đa phần môn đồ chỉ là những người gốc Hoa. Cùng với võ sư Làm Ốn Và, Voòng Sìu Khoóng, Chu Há là một trong ba đại đệ tử của thầy Tô (những đệ tử này được Tô sư phụ đặt hiệu riêng là Và Cố, Khoóng Cố, Há Cố).

Là người có tư chất võ thuật nên theo Tô sư phụ được ít lâu, võ sư Chu Há đã lĩnh hội xuất sắc những kỹ năng công phu mà sư phụ mình truyền dạy. Điều ấy đã được minh chứng bằng việc năm 1965, trong lễ hội Hoa Liên do Hoa kiều tổ chức ở Hà Nội, võ sư Chu Há đã vinh dự được Tô sư phụ chọn để biểu diễn quyền thuật cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bác sĩ Trần Duy Hưng thưởng thức. Sau buổi biểu diễn đó, võ đường của Tô sư phụ đã được Thủ tướng gửi gắm nhiều lời khen ngợi.

Tuyệt kỹ cho người thích… la cà quán xá

Năm 1982, Chu Há tham gia Hội võ thuật cổ truyền Hà Nội và đứng ra thành lập võ đường riêng.

Võ sư Chu Há là người đam mê sáng tạo. Với võ thuật cũng vậy. Với những tinh hoa học được từ sư phụ mình, ông đã góp phần làm rạng danh Hồng gia quyền với nhiều bài võ do tự mình phóng tác. Với các bài võ ấy thì các môn sinh của võ đường Chu Há đã giành được rất nhiều huy chương vàng ở các hội diễn, liên hoan võ thuật.


Võ sư Chu Há bây giờ

Đặc biệt, khi sáng tạo, võ sư Chu Há luôn hướng về những thứ “binh khí” gần gũi, giản đơn gắn liền với đời sống của con người. Mễ, điếu cày, ba toong... là những thứ thường thấy trong những bài võ do ông ngẫu hứng sáng tạo. Nói về lối tư duy lạ lùng ấy của mình, ông cười bảo, quán nước trà lá thường là nơi dễ bị... ăn đòn nhất. Bởi thế, với mễ để ngồi, điếu cày hút thuốc lào trong tay thì những người học bài võ này sẽ an tâm tuyệt đối khi... lê la quán nước!

Tên tuổi võ đường Hồng Gia cùng võ sư Chu Há ngày một nổi tiếng qua mỗi lần “võ lâm đại hội”. Điều đó đã được thể hiện qua các tấm huy chương mà môn sinh của võ đường giành được sau những kỳ ứng võ thi tài. Sự nổi tiếng ấy không chỉ ở trong nước, mà nhiều môn sinh ở nước ngoài cũng vô cùng mến mộ ông.

Năm 1990, võ sư Chu Há được Sở Thể dục thể thao Hà Nội cử sang Nga, Tiệp Khắc (cũ) biểu diễn. Ông kể, ở những nước này, người dân rất đam mê quyền thuật phương Đông. Bởi thế, mỗi đêm biểu diễn, có đến 7- 8 vạn khán giả tới xem, cổ vũ. Cũng tại chuyến biểu diễn ấy, ông đã được mời ở lại để dạy công phu cho những võ sinh mến mộ mình.

Vậy là, suốt một năm trời, ông miệt mài truyền bá Hồng gia quyền tại Nga. Có lần, việc gia đình, ông phải về nước. Thế nhưng, về chưa đầy tuần thì học trò ông đã điện thoại tới tấp vì thấy ông đi... lâu quá! Theo võ sư Chu Há, hiện tại, ở Nga, những môn đệ năm nào của ông vẫn đang tiếp tục khuếch trương Hồng gia quyền và cũng thu hút được đông đảo môn sinh.

Đón đọc bài cuối: Ai là đệ nhất cao thủ võ Việt?

Đào Thanh Tuy

trích: giadinh.net

19. Chuyện về "sư phụ của Võ Tòng"

Năm 1989, báo giới đồng loạt đưa những thông tin "giật mình" về một "hiện tượng võ thuật mới"... Nhân vật của các bài báo chứa đựng sự kinh ngạc ấy là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện là chưởng môn của Thăng Long võ đạo lừng danh.


Được thừa hưởng một gia tài võ học khổng lồ từ người ông và cha mình, võ sư Nguyễn Văn Thắng đã bổ sung cho nghệ thuật võ học Việt Nam nhiều giai thoại.

Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, Nguyễn Văn Thắng đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng qua khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, khung ảnh Đạt Ma sư tổ... nặng tới gần 80 kg.

Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống: “Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham sắc”... Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.

Lời giới thiệu của một đại cao thủ

Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc.

Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.

Dù được sự chỉ dẫn tận tình của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được vị võ sư từng gây kinh ngạc trong giới võ lâm năm xưa bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng.

Một ngày của võ sư Thắng bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.

Các võ sĩ Thăng Long võ đạo đang luyện tập

Dòng dõi oai hùng

Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân.

Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo, bởi trước đây lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.

Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn nói cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một “gia sản võ học” khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại.

Ông nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, tên là Thống Luận. Cụ Thống Luận theo học Thiếu lâm nội gia, là bạn vong niên với cụ Đề Thám nên võ học cũng hết sức uyên thâm.

Ông ngoại cố võ sư Nhân là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn. Khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu chiến đấu trong thành. Về sau, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ).

Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại của cụ - võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ cụ đã làm rạng danh tiên tổ.

“Hoàng Phi Hồng của Việt Nam”

Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt. Chúng tìm cách triệt hạ để Hà Nội không còn “vườn ươm mầm hoạ”. Có lần, chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt.

Thế nhưng, trước âm mưu hèn hạ của kẻ thù, cụ vẫn không hề khuất phục. Lò võ của cụ vẫn bí mật chiêu sinh, cụ thì vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của mình.

Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư “cứng đầu” ấy. Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này.

Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, bởi sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Nham hiểm hơn, chúng nghĩ, ham mê danh lợi, nhiều người đã “bỏ quên” tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính... người nhà, quyết chí ăn thua.

Công phá chồng gạch

“Sư phụ của Võ Tòng” ở... Việt Nam

Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn rất đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ.

Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn. Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích “Võ Tòng đả hổ” ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế.

Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ. Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.

Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn.

Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng. Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác liệt, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy.

Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy “kẻ thua cuộc”, ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra. Và, cũng chừng ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết.

Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Có người còn gọi võ sư Mùi Đen là “sư phụ của Võ Tòng” vì một lúc đánh chết những hai con hổ. Còn đám thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt, chuồn thẳng.

Sáng lập Thăng Long Võ đạo

Chưởng môn thứ nhất Nguyễn Văn Nhân (bên phải)

Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng Tám, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội. Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đả lôi đài.

Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy, bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất đẹp. Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy.

Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ. Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích.

Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng. Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền lấy tiền vàng ủng hộ. Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.

* Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu... kỷ luật thép.

Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ... khổ sai ấy. Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn... đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi.

Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công. Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn.

Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước...

(Còn nữa)

Đào Thanh Tuy


trích: giadinh.net

18.Tuyệt kỹ của cha con ông “Ốc” Bình Định Gia

Ông trông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế, tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu thuyết nổi tiếng "Thần điêu đại hiệp" của Kim Dung...



Từng nổi danh với vai Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu - Sò - Ốc - Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh ngoài đời, ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái lừng danh Bình Định Gia.

Vị sáng tổ và tình bạn với võ tướng triều Quang Trung

Ông là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang “Ốc”, hay còn gọi thân mật là “ông Ốc”. Trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước...

Ở Võ đường Việt - An (sân trường Việt Nam - Angiêri, đường Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) lúc nào cũng thấy một ông già ngồi đăm chiêu. Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc, ông lại thong thả bước lên thềm.

Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất đưa võ cổ truyền Bình Định Bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình, ông bảo, cách đây trên 200 năm cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái, vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.

Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc gia, vinh danh dòng họ.

Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương Nam, đến Bình Định. Tại đây, duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những tướng tài của vua Quang Trung.

Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời, nhờ cụ Chí mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.

Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực. Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương.

“Nuốt chửng” nhiều bí kíp võ công

Ở tuổi lên 10, võ sư Quang Bảo (tên gọi của lão võ sư Trần Hưng Quang) được cha mình truyền thụ võ nghệ. Đến năm 13 tuổi, với tư chất lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình, nhưng tiếng tăm về cậu bé anh hùng ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.

Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần họ triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết “vốn” để dạy cho đứa con khiếu võ, cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình. Gần chục năm ròng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt ông tới học.

Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì ông lại lên đường đi tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.

Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh hội vẹn toàn.

Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa “ăn nhờ ở đậu”, ông đã “nuốt chửng” bí kíp này. Thậm chí, trong đường kiếm ông đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang đãng.

Tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ khác ở Bình Định, ông mải mê đi đánh võ đài. Ông kể, thủa ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.

Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn. Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai rớt đài trước thì là người thua cuộc.

Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.

Võ sư Trần Hưng Quang luyện tập với mộc nhân

Dùng thiết đầu công “đột nhập” tàu hỏa đang chạy

Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một “tài sản” gia truyền. Và, trong cuộc đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng.

Năm 1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà, vào Nam ra Bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có giai thoại.

Một lần, ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh. Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm. Quá cấp bách, ông đành sử dụng luôn món “Thiết đầu công” mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc đầu như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.

Năm 1982, Bình Định Gia chính thức khai trương ở Hà Nội. Một lần kéo đệ tử lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những quan chức của Sở Thể dục - Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.

Chàng trai trẻ và những lần bất đắc dĩ xuất lộ tuyệt kỹ

Cố võ sư Trần Hưng Hiệp

Ông có 3 người con, 2 trai một gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai.

Với võ sư Quang thì dường như Hiệp sinh ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu võ thuật thiên bẩm của cậu con trai. Bởi thế, những bài quyền, thế cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh. Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu - Điện ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật.

Thời gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ tuổi nhất trong làng võ cổ truyền.

Lão võ sư Trần Hưng Quang nói, nhờ có Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo học, quần hùng mến mộ.

Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội tâm. Lão võ sư kể, có lần trong khu nội trú trường Sân khấu - Điện ảnh, một nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành ra mặt.

Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om sòm.

Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy, Hiệp bảo: “Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?”. Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. “Dính chưởng”, chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, kẻ “đầu gấu” mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng.

Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ, tu chí luyện rèn võ nghệ.

Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen anh được mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì bọn chúng lấy làm... ngứa mắt. Chúng buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.

Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng càng thêm tức tối, ỷ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy “chiến hữu” cùng bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy “quân ta” yếu thế hơn nên chẳng ai dám động thủ.

Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên. Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh. Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn da gà. Chưa dừng lại, tay phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh.

Cú đấm uy lực đến nỗi cả bức tường và mái nhà rung lên như vừa xảy ra địa chấn. Thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống như chẳng có chuyện gì.

Linh giác công – công phu đệ nhất

Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh.

Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới...

Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu, chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn.

Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng... hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dạy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì... sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.

Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Anh là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.

Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại.

Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò. Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt xớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi.

Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy. Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay rầm rập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười.

Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà con trai ông đã kể cho ông “sự kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của cha, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía Bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì vì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, từ hôm nghe tin con trai mất, ông cứ thấy mình như đi trên mây khói, người như không còn chút trọng lượng, sức lực nào.

(còn nữa)

Đào Thanh Tuy

trích:giadinh.net


17. Võ sư Nguyễn Hữu Khai và môn phái Bảo Long y võ

Mọi người biết đến ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi, có trình độ, một nhà quản lý tài ba với những thành tựu nổi bật trong sản xuất kinh doanh mà ông còn nổi tiếng từ Bắc vào Nam trên cương vị là một võ sư với hàng ngàn môn đệ trong và ngoài nước. Ông là Võ sư, Tiến sỹ Y học Nguyễn Hữu Khai - Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, Tổng Giám đốc Tập đoàn Đông dược Bảo Long.

Có lẽ những ai được chứng kiến ông biểu diễn Võ cổ truyền một lần sẽ không thể không trầm trồ, thán phục trước trình độ võ thuật của ông và lại càng không thể tin năm nay ông đã ngoài 50 tuổi, bởi thể hình còn rất cường tráng và săn chắc.

Võ sư Nguyễn Hữu Khai (bên phải) đang biểu diễn màn "Thiết phúc công"

Ngay từ nhỏ, ông đã có niềm đam mê y học và võ thuật nên bất cứ ở đâu, lúc nào có cơ hội được tiếp xúc với 2 mảng kiến thức, lĩnh vực này là ông lại bỏ công nghiên cứu và thu thập. Nhiều bộ giáo trình về võ thuật và y học đã được ông biên soạn công phu, trở thành "kim chỉ nam" cho hàng ngàn võ sinh của môn phái Bảo Long y võ học và tập luyện đạt kết quả cao, cũng như dành cho những người yêu thích môn võ này có thể tự tập luyện, tăng cường sức khoẻ cho bản thân.



Môn phái Bảo Long y võ do ông sáng lập được chắt lọc từ những tinh hoa của võ cổ truyền dân tộc, lấy việc rèn luyện sức khoẻ và ý chí làm trọng. Hình thức kết hợp chữa bệnh bằng thuốc và võ thuật đã đem lại kết quả bất ngờ và là một phương pháp hiếm thấy từ xưa tới nay. Bản thân ông dù bận "trăm công nghìn việc" vẫn thường xuyên rèn luyện võ nghệ, ngoài việc nâng cao công lực cho mình ông còn dùng nó để chữa bệnh. Ông luôn căn dặn các võ sinh rằng: "Muốn trở thành người có võ công giỏi, trước hết cái tâm phải sáng, phải biết kết hợp giữa võ với tâm đạo, với thuốc để trị bệnh".

Thầy trò trường Phổ thông võ thuật Bảo Long trong màn múa võ tập thể.

Ngày 20/10/2007, tin vui lại đến với phong trào võ thuật cả nước, trường phổ thông võ thuật đầu tiên của Việt Nam mang tên Bảo Long chính thức ra mắt tại xã Cổ Đông, TP Sơn Tây, Hà Tây. Đây là một mô hình đào tạo mới nhất trong hệ thống giáo dục phổ thông năng khiếu Việt Nam. Trường Phổ thông võ thuật Bảo Long có mô hình đào tạo đa dạng cả về văn hoá lẫn võ thuật. Về văn hoá, các em học sinh được học đầy đủ giáo trình phổ thông theo quy định của Bộ GD-ĐT, sau khi tốt nghiệp cấp học THPT đủ điều kiện thi vào các trường đại học và các trường đào tạo nghề. Về võ thuật, những em có năng khiếu tiếp tục được huấn luyện trở thành những vận động viên tham dự các giải đấu và trở thành HLV, võ sư trong tương lai. Với học sinh mới, nhà trường miễn toàn bộ học phí một năm cho các võ sinh đã đoạt Huy chương vàng tại các giải trẻ và giải vô địch võ cổ truyền toàn quốc. Trong suốt quá trình học các em được tham gia đội tuyển thi đấu tại các giải quốc gia, tiếp tục giành được Huy chương vàng năm nào thì lại được miễn học phí năm đó, giành Huy chương bạc thì được miễn học phí nửa năm.

Khi được hỏi thêm về bí quyết phát triển phong trào tập luyện thể thao của Tập đoàn Đông dược Bảo Long, ông Khai cho biết: "Là thầy thuốc tôi luôn lấy sức khoẻ làm trọng, tôi muốn tất cả mọi người đều được khoẻ mạnh, những người làm việc với tôi cũng cần có một thể chất khoẻ mạnh, cường tráng, một ý chí, nghị lực kiên cường. Thể thao sẽ giúp họ làm được điều đó".

Có lẽ chính vì mục tiêu ấy mà ông cùng với ban lãnh đạo của Tập đoàn Đông dược Bảo Long đã đầu tư xây dựng 2 sân Bóng đá, 01 sân Quần vợt, một khu nhà nghỉ cao tầng với đầy đủ tiện ghi sinh hoạt cần thiết cho hàng trăm VĐV, HLV về tập huấn và thi đấu. Hội trường đa năng của Trung tâm với diện tích 1.500m2 là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động vui chơi thể thao, văn hóa cho các VĐV... Đến nay, ngoài võ thuật, Tập đoàn Đông dược Bảo Long đã phát triển được phong trào tập luyện thể thao rộng khắp, đa dạng về số môn như: Bóng chuyền, Bóng bàn, Cầu lông, Bóng đá, Quần vợt.., đồng thời đây cũng là một trong những đơn vị thường xuyên tài trợ cho các giải thể thao thành tích cao, cung cấp nhiều VĐV cho đất nước tham dự các giải đấu trong nước và khu vực.

Với những cống hiến cho Y học và Võ thuật, Võ sư, Tiến sỹ Y học Nguyễn Hữu Khai đã vinh dự được nhận Bằng khen của Thủ tướng về thành tích đóng góp vào sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc, Bằng Lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn Lao động (năm 2000); Huy chương “Vì sự nghiệp chữ thập đỏ” (năm 2002); huy chương “Vì sức khỏe nhân dân” của Bộ Y tế (năm 2003); huy chương vì sự nghiệp thể thao của Ủy ban Thể dục thể thao (năm 2004) và giải thưởng chân dung Bạch Thái Bưởi (biểu tượng nhà doanh nghiệp giỏi năm 2004).

Hoa Hường

trích : vo-thuat.net